Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 23 Nghị định số 61 và khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 09 thì thủ tục tống đạt văn bản về thi hành án dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thủ tục tống đạt văn bản của Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng. Do đó, nội dung của mục này được phân tích tương ứng với hai loại văn bản tống đạt vừa nêu.
Nghị định số 61, Nghị định số 135 và
Thông tư liên tịch số 09 đều có sử dụng thuật ngữ “tống đạt” để quy định việc thông báo, giao nhận các văn bản của
Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự do thừa phát lại thực hiện theo quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, thủ tục thông báo, cấp, tống đạt văn bản là các thủ tục độc lập và có sự
khác nhau. Căn cứ Điều 39 đến Điều 43 Luật thi hành án dân sự năm 2008 thì các
văn bản về thi hành án dân sự được gửi đến đương sự thông qua thủ tục thông báo
về thi hành án. Việc giao nhận các văn bản thi hành án giữa cơ quan thi hành án
dân sự và đương sự được lập thành “Biên bản
về việc giao quyết định, văn bản về thi hành án” (Mẫu số D33-THADS ban hành
kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp). Như vậy,
căn cứ các quy định hiện hành thì hoạt động thi hành án dân sự không có thủ tục
“tống đạt” văn bản. Do đó, theo tác
giả, các văn bản quy phạm pháp luật về thừa phát lại sử dụng một thuật ngữ
chung là “tống đạt” để quy định về việc thông báo, giao nhận các văn bản của
Tòa án và cơ quan thi hành án dân sự do thừa phát lại thực hiện là chưa thực sự
chính xác.
Thừa phát lại đang niêm yết văn bản tống đạt ở Ủy ban nhân dân phường
Theo khoản 3 Điều 39 Luật thi hành án
dân sự năm 2008 thì việc thông báo thi hành án dân sự được thực hiện thông qua
ba phương thức như sau: Thông báo trực tiếp; niêm yết công khai và thông báo
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật
về thừa phát lại không quy định nhưng theo tác giả, thừa phát lại chỉ có chức
năng thông báo văn bản thi hành án dân sự theo hai phương thức đầu tiên bởi đây
là các phương thức mà thừa phát lại trực tiếp thực hiện việc giao nhận, thông
báo văn bản thi hành án dân sự đến đương sự. Đối với phương thức thông báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng thì người trực tiếp thực hiện thông báo là
chủ sở hữu hoặc cơ quan quản lý phương tiện thông tin đại chúng.
1.1. Thủ tục thông báo trực tiếp
Sau khi nhận bàn giao văn bản từ cơ
quan thi hành án dân sự, thừa phát lại hoặc thư ký được phân công sẽ trực tiếp
thông báo văn bản cho đương sự theo địa chỉ mà cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu.
Địa chỉ cần thông báo là địa chỉ thể hiện trên bảng kê bàn giao văn bản.
Đối với cá nhân
Thủ tục thông báo trực tiếp cho cá
nhân được quy định tại Điều 40 Luật thi hành án dân sự năm 2008. Người tiến
hành thông báo sẽ giao trực tiếp cho đương sự và yêu cầu người đó ký nhận hoặc
điểm chỉ. Nếu đương sự từ chối nhận thông báo nhưng người tiến hành thông báo
đã lập biên bản, có chữ ký của người chứng kiến thì việc thông báo được coi là
hợp lệ tương tự với việc thông báo tận tay đương sự hoặc người thân thích mà
không cần phải tiến hành niêm yết[1].
Trên thực tế, một số cơ quan thi hành án dân sự vẫn yêu cầu văn phòng thừa phát
lại tiến hành niêm yết văn bản nếu thuộc trường hợp này.
Nếu đương sự vắng mặt tại thời điểm thông
báo thì người tiến hành thông báo giao thông báo cho một trong số những người
thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú với người đó. Người nhận
thay thông báo thi hành án cho cá nhân phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, đó là phải là người có đầy
đủ năng lực hành vi dân sự. Đây là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không thuộc
trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự[2].
Theo tác giả, đây là một quy định hợp lý bởi thông báo thi hành án dân sự là một
thủ tục rất quan trọng, ràng buộc trách nhiệm của cơ quan thi hành án lẫn người
cần thông báo, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thi hành án dân sự. Do đó, người
nhận thông báo thay cần có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để nhận thức được
trách nhiệm của mình khi nhận thông báo thay là phải giao lại văn bản tận tay cho
người cần thông báo.
Thứ hai, đó là người cùng cư trú với
người cần thông báo văn bản. Xét về câu chữ, “cùng cư trú” có nghĩa là cả người cần thông báo lẫn người nhận thay
thông báo cùng cư trú một địa chỉ. Hiện nay, việc xác định nơi cư trú của cá nhận
được Bộ luật dân sự năm 2015 và Luật cư trú năm 2006 được sửa đổi, bổ sung năm
2013 cùng quy định. Tuy nhiên, hai văn bản luật này có quy định không thống nhất
về nơi cư trú của cá nhân. Bộ luật dân sự xác định nơi cư trú của cá nhân là
nơi người đó thường xuyên sinh sống hoặc nơi người đó đang sinh sống[3].
Luật cư trú thì xác định nơi cư trú là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên
sinh sống và có đăng ký thường trú hoặc nơi tạm trú; nếu không xác định được
thì theo tiêu chí này thì là nơi người đó đang sinh sống[4].
Như vậy, Bộ luật dân sự xác định nơi cư trú của cá nhân theo tiêu chí là địa chỉ
thực tế mà người đó sinh sống nhưng Luật cư trú bổ sung thêm một tiêu chí là việc
cư trú phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền (đăng ký thường trú hoặc tạm
trú). Theo tác giả, xét theo ngữ cảnh thì “cùng
cư trú” trong thông báo thi hành án nên được hiểu là đương sự và người thân
thích của đương sự cùng cư trú tại địa chỉ mà cơ quan thi hành án yêu cầu văn
phòng thừa phát lại đi thông báo thể hiện trên bảng kê bàn giao văn bản.
Thứ ba, đó là người có quan hệ thân
thích với người cần thông báo văn bản và thuộc một trong số những người được liệt
kê theo pháp luật thi hành án dân sự. Những người này gồm: Vợ, chồng, con, ông,
bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng
của đương sự. Quy định này nhằm đảm bảo người nhận văn bản thay biết rõ về người
cần thông báo và vì mối quan hệ thân thích mà họ thấy có trách nhiệm nhận thay
văn bản lúc người đó đi vắng và bàn giao lại văn bản lúc người này trở về địa
chỉ cư trú. Hiện nay, đối tượng “người
thân thích” được quy định trong văn bản của một số lĩnh vực như công chứng[5], thừa
phát lại[6], tố
tụng dân sự[7], tố tụng hình sự[8], hôn
nhân gia đình[9], điều kiện mang thai hộ[10]...
Quy định về người thân thích trong các lĩnh vực này là chưa thống nhất với nhau
về mặt câu chữ nhưng nhìn chung đã liệt kê và làm rõ mối quan hệ của người thân
thích với chủ thể trong quan hệ mà pháp luật muốn điều chỉnh, ví dụ, điểm c khoản
1 Điều 7 Luật công chứng năm 2014 quy định người thân thích “là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi;
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể;
ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của
con đẻ, con nuôi”. Do đó, theo tác giả, để tránh việc gây ra nhiều cách hiểu
khác nhau, người thân thích nhận thay văn bản thi hành án cần được điều chỉnh
theo hướng làm rõ quan hệ những người sau đây đối với đương sự: Về con thì cần
xác định rõ là con đẻ, con nuôi hoặc cả hai; về cha, mẹ thì cần xác định rõ là
cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi hoặc cả hai; về bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của đương
sự thì cần xác định rõ họ là bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em “ruột” của đương sự.
Thủ tục giao văn bản cho người thân
thích nhận thay là một thủ tục cần thiết bởi điều này vừa tạo cơ chế cho người
cần thông báo tiếp nhận được văn bản vừa giúp cơ quan thi hành án dân sự hoàn
thành trách nhiệm thông báo để tiến hành các thủ tục thi hành án tiếp theo. Tuy
nhiên, quy định về thủ tục này vẫn có bất cập cần hoàn thiện để việc thực hiện
của văn phòng thừa phát lại, cơ quan thi hành án được chặt chẽ, tránh ảnh hưởng đến kết quả
thi hành án.
Khi giao văn bản cho đương sự hoặc
người thân thích nhận thay, người tiến hành tống đạt phải lập thành biên bản,
có chữ ký nhận hoặc điểm chỉ của những người này. Ngày lập biên bản là ngày được
thông báo hợp lệ.
Đối với cơ quan, tổ chức
Thủ tục thông báo trực tiếp cho đối
tượng này được quy định tại Điều 41 Luật thi hành án dân sự năm 2008. Người tiến
hành thông báo giao trực tiếp văn bản thông báo cho người đại diện theo pháp luật
hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được
những người này ký nhận; Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại
diện tham gia việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo
thì những người này ký nhận văn bản thông báo.
Việc thông báo thi hành án cho cơ
quan, tổ chức và thông báo thi hành án cho cá nhân có điểm tương đồng là cùng
có hành vi giao nhận văn bản và ký nhận. Về sự khác nhau, giữa chúng có hai điểm
gồm: Ngoài việc ký hoặc điểm chỉ thì cần đóng dấu của cơ quan, tổ chức trên
biên bản thông báo; thứ hai, có bốn loại người có trách nhiệm nhận thông báo
thi hành án cho cơ quan, tổ chức gồm người đại diện theo pháp luật, người chịu
trách nhiệm nhận văn bản (bộ phận hành chính – văn thư), người đại diện tham
gia việc thi hành án hoặc người được cử đại diện nhận văn bản thông báo. Đối với
cá nhân, đích danh người này nhận thông báo, nếu người này vắng mặt thì có thể
giao cho người thân thích nhưng đây chỉ là cơ chế nhận thay.
Ngoài việc giao tận tay văn bản cho
người cần thông báo và giao cho người thân nhận thay thì thông báo bằng điện
tín, fax, email hoặc hình thức khác tương tự khi người thông báo có yêu cầu là
một trong các hình thức của thông báo trực tiếp[11].
Tuy nhiên, trên thực tế, rất hiếm trường hợp đương sự yêu cầu thực hiện thông
báo qua hình thức này và nếu có thì người tiến hành thông báo là cơ quan thi
hành án thông qua địa chỉ điện tử của cơ quan thi hành án mà không cần đến vai
trò của thừa phát lại.
1.2. Thủ tục niêm yết công khai
Niêm yết là việc dán giấy để thông
báo chính thức, công khai cho công chúng biết về một vấn đề gì đó[12]. Thủ
tục này được quy định trọn vẹn tại Điều 42 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Theo tác giả, đây là thủ tục “bất đắc dĩ”,
chỉ tiến hành khi đã áp dụng các biện pháp thông báo trực tiếp mà không thành
công. Phương thức này không đảm bảo người cần thông báo sẽ nhận được hoặc biết
được nội dung văn bản cần thông báo.
Về điều kiện
Thủ tục này được thực hiện khi không
rõ địa chỉ của người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông
báo trực tiếp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Không rõ địa chỉ của người được thông
báo không có nghĩa là người tiến hành tống đạt không tìm được địa chỉ mới của
người cần thông báo. Đây là trường hợp đương sự đã chuyển đi nơi khác mà thừa
phát lại, thư ký nghiệp vụ không biết địa mới của đương sự.
Không thể thực hiện được việc thông
báo trực tiếp là trường hợp người tiến hành tống đạt không thông báo trực tiếp được
cho đương sự và cũng không thực hiện được thủ tục cho người thân thích nhận
thay khi đương sự đi vắng, chủ yếu là ba trường hợp sau đây: Đương sự vắng nhà
nhưng người thân thích từ chối nhận thay hoặc đồng ý nhận thay nhưng từ chối ký
nhận thay; đương sự vắng nhà nhưng không có người thân thích đủ điều kiện nhận
thay văn bản; người được thông báo vắng mặt mà không rõ thời điểm trở về.
Khi nghiên cứu các quy định liên quan
đến điều kiện niêm yết văn bản thi hành án, tác giả thấy phát sinh các vấn đề
sau cần trao đổi làm rõ:
Thứ nhất, cá nhân đã chết, doanh nghiệp
đã hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể thì có thực hiện thủ tục niêm yết hay
không. Theo tác giả, thông báo thi hành án là hoạt động nhằm thông báo thông
tin về thi hành án cho cá nhân, tổ chức cụ thể để những chủ thể này nắm được
thông tin, thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Cá nhân đã chết, doanh nghiệp
đã hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể là đã chấm dứt sự tồn tại nên không thể
tiếp nhận thông báo thi hành án và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Do đó, người
tiến hành thông báo sẽ lập biên bản và gửi trả văn bản thi hành án về lại cho
cơ quan thi hành án.
Thứ hai, đối với việc thông báo cho
cá nhân và địa chỉ cần thông báo là nơi làm việc thì có thực hiện thủ tục niêm
yết hay không. Đối với trường hợp này, chỉ có duy nhất hình thức thông báo trực
tiếp. Nếu không thông báo trực tiếp được thì người tiến hành tống đạt lập biên
bản và hoàn trả lại cơ quan thi hành án mà không niêm yết công khai. Bởi vì, một
trong ba địa chỉ cần niêm yết công khai là nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng
của người được thông báo (địa chỉ cần thông báo) nhưng trường hợp vừa nêu là địa
chỉ làm việc.
Về thủ tục
Nhìn chung, người tiến hành thông báo
thực hiện hai bước là niêm yết văn bản và lập biên bản về việc niêm yết. Để dự
phòng, cơ quan thi hành án thường bàn giao cho văn phòng thừa phát lại 02 bản
chính hoặc 01 bản chính và 01 bản sao văn bản cần thông báo. Khi thuộc trường hợp
niêm yết, người tiến hành thông báo sẽ niêm yết lần lượt tại ba nơi gồm: Nơi cư
trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo; trụ sở Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi có địa chỉ cần thông báo; trụ sở cơ quan thi hành án dân sự. Có một
điều đang chú ý là thuật ngữ “cư trú”
tại điều luật về người thân thích chưa được minh định là theo pháp luật cư trú
hay pháp luật về dân sự nhưng thuật ngữ “cư
trú” tại điều luật niêm yết đã được quy định là xác định theo pháp luật về
cư trú[13].
Về việc lập biên bản niêm yết công
khai, người tiến hành tống đạt lập biên bản và có chữ ký của người chứng kiến.
Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định hai loại
biên bản cần lập là Biên bản về việc giao quyết định, văn bản về thi hành án
(làm cơ sở cho việc niêm yết) và Biên bản về việc niêm yết công khai quyết định,
giấy tờ về thi hành án cho cơ quan thi án nhà nước thực hiện. Văn bản quy phạm
pháp luật về thừa phát lại hiện hành chưa quy định về các loại biểu mẫu này nên
các văn phòng thừa phát lại tự ban hành hai loại biểu mẫu tương tự để tiến hành
thủ tục niêm yết[14].
Về thời gian niêm yết
Thời gian niêm yết công khai văn bản
thông báo là 10 ngày, kể từ ngày niêm yết. Ngày niêm yết là ngày được thông báo
hợp lệ. Cơ quan thi hành án có thể tiến hành các thủ tục thi hành án ngay sau
khi niêm yết văn bản mà không phải chờ hết 10 ngày niêm yết.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều
23 Nghị định số 61 và khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 09 thì thủ tục tống
đạt văn bản của Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng. Pháp luật về tố tụng dân sự, hành
chính quy định việc giao, nhận văn bản của Tòa án với đương sự được thực hiện bởi
ba hình thức là cấp, tống đạt, thông báo; pháp luật về tố tụng hình sự quy định
nhiều hình thức gồm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố
tụng. Trong phạm vi luận văn này, tác giả gọi chung thủ tục giao, nhận văn bản
của Tòa án với đương sự là thủ tục tống đạt. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và
Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định tương đồng nhau về các phương thức cấp,
tống đạt, thông báo văn bản tố tụng gồm:
-
Cấp,
tống đạt, thông báo trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ ba được ủy
quyền thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo.
-
Cấp,
tống đạt, thông báo bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu của đương sự hoặc người
tham gia tố tụng khác phù hợp với quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
-
Niêm
yết công khai.
-
Thông
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
-
Cấp,
tống đạt, thông báo văn bản cho đương sự ở nước ngoài.
Đối với vụ việc do hai bộ luật này điều
chỉnh, văn phòng thừa phát lại chỉ thực hiện tống đạt trực tiếp và niêm yết
công khai. Phương thức tống đạt qua dịch vụ bưu chính, qua phương tiện điện tử
và phương tiện thông tin đại chúng do chính các tổ chức này thực hiện việc tống
đạt cho Tòa án. Đối với hồ sơ tống đạt cho đương sự ở nước ngoài, văn phòng thừa
phát lại không thực hiện bởi không thuộc thẩm quyền tống đạt theo lãnh thổ.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy
định số lượng phương thức tống đạt ít hơn gồm: Cấp, giao, chuyển trực tiếp; Gửi
qua dịch vụ bưu chính; Niêm yết công khai; Thông báo qua phương tiện thông tin
đại chúng. Tương tự, hai lĩnh vực nêu trên, văn phòng thừa phát lại chỉ tống đạt
theo hai phương thức là cấp, giao, chuyển trực tiếp và niêm yết công khai. Trên
thực tế, văn phòng thừa phát lại hiếm khi thực hiện việc tống đạt văn bản trong
lĩnh vực tố tụng hình sự và nếu có thực hiện thì chỉ tống đạt cho người bị hại,
người làm chứng là chủ yếu. Có lẽ, do tính chất quan trọng trong việc tổ chức một
phiên tòa hình sự nên Tòa án thường trực tiếp hoặc đề nghị cơ quan công an thực
hiện việc tống đạt.
2.1. Thủ tục tống đạt trực tiếp
Đối với cá nhân
Tương tự thủ tục thông báo trực tiếp
văn bản thi hành án, người tiến hành tống đạt văn bản của Tòa án sẽ giao trực
tiếp văn bản cần tống đạt cho đương sự và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ
vào biên bản.
Nếu đương sự từ chối nhận văn bản thì
người tiến hành tống đạt sẽ lập biên bản ghi nhận sự việc có xác nhận của chính
quyền địa phương. Đối với văn bản tố tụng hình sự thì người tiến hành tống đạt
không cần phải niêm yết mà việc lập biên bản này xem như đã hoàn thành việc tống
đạt[15].
Tuy nhiên, đối với văn bản tố tụng dân sự và hành chính thì pháp luật chưa quy
định rõ ràng nên vẫn tồn tại hai cách xử lý là niêm yết và không niêm yết tùy
quan điểm của mỗi Tòa án, mỗi thẩm phán thụ lý hồ sơ[16].
Nếu đương sự vắng mặt thì người tiến
hành tống đạt phải lập biên bản và giao cho một trong số những người khác đủ điều
kiện nhận thay để giao lại cho đương sự. Khi giao văn bản cho đương sự hoặc người
nhận thay, người tiến hành tống đạt phải lập thành biên bản, có chữ ký nhận hoặc
điểm chỉ của những người này.
So với thủ tục thông báo thi hành án,
việc giao văn bản cho người khác nhận thay trong lĩnh vực tố tụng có hai điểm
khác biệt như sau:
Thứ nhất, chủ thể nhận thay văn bản
khi người cần tống đạt vắng mặt là đa dạng hơn. Trong lĩnh vực thi hành án, người
nhận thay là người thân thích nhưng đối với lĩnh vực tố tụng thì người nhận
thay không chỉ là người thân thích mà còn có các đối tượng khác. Về văn bản tố
tụng dân sự, ngoài người thân thích thì tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn,
làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc là người nhận thay[17]. Về
văn bản tố tụng hành chính, người nhận thay là tổ trưởng tổ dân phố[18]. Tuy
cách sử dụng từ ngữ khác nhau nhưng nhìn chung đây là người đứng đầu một tổ chức
tự quản của cộng đồng dân cư (không phải là đơn vị hành chính) được tổ chức dưới
xã, phường[19]. Về văn bản tố tụng hình
sự, người nhận thay là chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập để giao lại cho người được
nhận. Cơ quan, tổ chức đã nhận thay văn bản tố tụng hình sự phải thông báo ngay
kết quả việc cấp, giao, gửi văn bản tố tụng cho các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng[20].
Thứ hai, về người thân thích nhận
thay, Luật thi hành án dân sự năm 2008 liệt kê cụ thể những chủ thể được xem là
người thân thích. Nhưng ở trong lĩnh vực tố tụng, các văn bản quy phạm pháp luật
đang có hiệu lực không có quy định chủ thể nào là người thân thích. Trước đây,
khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 còn hiệu lực, người thân thích được quy định
tại khoản 2 Điều 13 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (văn bản này đã hết hiệu lực theo Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2005).
Người thân thích nhận thay văn bản
cũng tương tự quy định về thông báo thi hành án dân sự tức người nhận thay phải
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, cùng cư trú với đương sự.
Đối với cơ quan, tổ chức
Thủ tục tống đạt trực tiếp cho cơ
quan, tổ chức được thực hiện tương tự Điều 41 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Người tiến hành tống đạt giao trực tiếp văn bản thông báo cho người đại diện
theo pháp luật hoặc người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó
và phải được những người này ký nhận; Trường hợp cơ quan, tổ chức có người đại
diện tham gia tố tụng hoặc cử người đại diện nhận văn bản tố tụng thì những người
này ký nhận văn bản tố tụng đó. Điểm khác nhau duy nhất là khoản 4 Điều 138 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định văn bản tố tụng hình sự được giao trực
tiếp cho người đại diện của cơ quan, tổ chức nhưng không làm rõ chi tiết người
đại diện là ai như pháp luật thi hành án dân sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành
chính.
2.2. Thủ tục niêm yết công khai
Về điều kiện
Đối với văn bản tố tụng dân sự và
hành chính, khoản 1 Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều
108 Luật tố tụng hành chính quy định giống nhau về điều kiện thực hiện thủ tục
niêm yết công khai. Điều kiện đó là không thể cấp, tống đạt hoặc thông báo trực
tiếp văn bản tố tụng. Từ quy định này, theo tác giả, các trường hợp sau đây sẽ
dẫn đến việc niêm yết văn bản: (01) Đương sự đi vắng, không có người thân thích
đủ điều kiện nhận thay và không giao được cho tổ trưởng tổ dân phố tống đạt
thay; (02) đương sự đi vắng, người thân thích đủ điều kiện và tổ trưởng tổ dân
phố từ chối nhận thay văn bản; (03) đương sự không còn cư trú tại địa chỉ cần tống
đạt và không rõ đang ở đâu.
Đối với văn bản tố tụng hình sự, khoản
1 Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định việc niêm yết được thực hiện
khi không rõ địa chỉ hoặc không rõ người được cấp, giao đang ở đâu.
Như vậy, điều kiện niêm yết văn bản
trong tố tụng hình sự là đơn giản nhất, tiếp đến là điều kiện niêm yết thông
báo thi hành án dân sự và sau cùng là điều kiện niêm yết văn bản tố tụng dân sự,
hành chính. Bởi vì, mặc dù có cơ chế để người thân thích, chính quyền địa
phương nơi đương sự cư trú, cơ quan, tổ chức nơi đương sự công tác, học tập nhận
thay văn bản nhưng chỉ cần “không rõ người
được cấp, giao đang ở đâu” như trường hợp đương sự đi vắng là có thể tiến
hành niêm yết văn bản. Đối với thông báo thi hành án dân sự, nếu đương sự đi vắng
thì phải thông báo qua người thân thích, nếu không được thì mới tiến hành niêm
yết. Đối với tố tụng dân sự và hành chính, nếu đương sự đi vắng thì phải tống đạt
qua người thân thích, tổ trưởng tổ dân phố, khi nào không thể tống đạt qua cả
hai nhóm người này thì mới tiến hành niêm yết.
Về thủ tục
Tương tự lĩnh vực thi hành án dân sự,
thủ tục niêm yết công khai trong tố tụng dân phải được thực hiện hai bước là
niêm yết văn bản và lập biên bản về việc niêm yết. Địa chỉ niêm yết văn bản tố
tụng dân sự và hành chính là tương đồng với thông báo thi hành án tức niêm yết ở
ba nơi gồm trụ sở Tòa án, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối
cùng của cá nhân, nơi có trụ sở hoặc trụ sở cuối cùng của cơ quan, tổ chức được
cấp, tống đạt hoặc thông báo.
Riêng đối với văn bản tố tụng hình sự,
thủ tục niêm yết đơn giản hơn khi chỉ thực hiện tại một trong hai địa điểm là
trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cuối cùng người được cấp,
giao văn bản tố tụng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi cuối cùng người đó
làm việc, học tập.
Về thời hạn niêm yết
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật
tố tụng hành chính năm 2015 quy định giống nhau về thời hạn niêm yết. Theo đó,
thời hạn niêm yết là 15 ngày kể từ ngày niêm yết. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
thì quy định thời hạn niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày kể từ ngày niêm yết;
thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày kết thúc việc niêm yết[21]. Như
vậy, thời hạn niêm yết văn bản tố tụng là dài hơn so với thời gian niêm yết văn
bản thi hành án dân sự (niêm yết 10 ngày). Quy định về niêm yết văn bản tố tụng
dân sự - hành chính, văn bản tố tụng hình sự và văn bản thi hành án dân sự có
những điểm khác nhau cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật về thi hành án
dân sự không dùng thuật ngữ “thời hạn”
niêm yết như pháp luật tố tụng mà dùng thuật ngữ “thời gian” niêm yết. Tòa án phải có đủ 15 ngày niêm yết văn bản mới
được tiến hành thủ tục tố tụng tiếp theo nhưng cơ quan thi hành án dân sự không
cần phải chờ 10 ngày niêm yết mà có thể tiến hành thủ tục thi hành án tiếp theo
trong ngày đầu tiên niêm yết văn bản.
Thứ hai, thời hạn niêm yết văn bản tố
tụng dân sự - hành chính (15 ngày), thời gian niêm yết văn bản thi hành án dân
sự (10 ngày) là cố định và không có tăng hoặc giảm. Tuy nhiên, thời hạn niêm yết
văn bản tố tụng hình sự là 15 ngày nhưng có thể nhiều hơn.
Thứ ba, cách tính thời điểm hoàn thành việc tống đạt, thông báo là có sự
khác nhau giữa pháp luật thi hành án dân sự và pháp luật tố tụng. Luật thi hành
án dân sự năm 2008 quy định ngày niêm yết là ngày được thông báo hợp lệ, tức
ngày niêm yết là ngày đương sự đã được thông báo thi hành án. Thời điểm hoàn
thành tống đạt văn bản tố tụng hình sự là ngày kết thúc việc niêm yết. Thời điểm
hoàn thành việc tống đạt văn bản tố tụng dân sự, hành chính không được pháp luật
quy định trực tiếp nhưng với cách sử dụng thuật ngữ “thời hạn” niêm yết trong điều luật liên quan thể hiện ngày hoàn
thành việc tống đạt là ngày kết thúc niêm yết[22].
[1] Khoản 4 Điều 12 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015.
[2] Điều 20 Bộ luật Dân sự
năm 2015;
[3] Điều 40 Bộ luật Dân sự
năm 2015;
[4] Điều 12 Luật cư trú
năm 2006;
[5] Điểm c khoản 1 Điều 7
Luật công chứng năm 2014;
[6] Khoản 3 Điều 6 Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009;
[7] Khoản 2 Điều 13 Nghị
quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao (văn bản này đã hết hiệu lực nhưng vẫn có giá trị tham khảo, áp dụng
trong nội bộ ngành Tòa án);
[8] Điểm e khoản 1 Điều 4
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
[9] Khoản 19 Điều 3 Luật
hôn nhân và gia đình năm 2014;
[10] Khoản 7 Điều 2 Nghị định
số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015;
[11] Khoản 2 Điều 12 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015.
[12] Viện khoa học pháp lý (2006), Từ
điển Luật học, Nxb Từ điển Bách Khoa & Nxb Tư pháp, tr.592.
[14] Xem Phụ lục số 04 đến
Phụ lục số 07.
[15] Khoản 3 Điều 138, Khoản
1 Điều 140 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
[16] Điều 177 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015, Điều 106 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[17] Khoản 5 Điều 177 Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015;
[18] Khoản 4 Điều 106 Luật
tố tụng hành chính năm 2015;
[19] Điều 2 Thông tư số 04/2012/TT-BNV
ngày 31/6/2012 của Bộ Nội vụ;
[20] Khoản 2 Điều 138 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015;
[21] Khoản 2 Điều 140 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015;
[22] Khoản 1 Điều 148 Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định: “Khi thời
hạn tính bằng ngày thì thời hạn kết thúc tại thời điểm kết thúc ngày cuối cùng
của thời hạn.”
Nguồn: Luận văn "Hoạt động tống đạt của Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam" - Lê Thị Hương, 2019, Đại học Kinh tế - Luật.