Hình minh họa vi bằng |
Hiện
nay, pháp luật về tố tụng dân sự không có bất kỳ quy định nào về thẩm quyền giải
quyết của Tòa án đối với tranh chấp về giá trị pháp lý của vi bằng. Do đó, nếu
người dân có yêu cầu, Tòa án sẽ rất lúng túng trong việc đưa ra hướng giải quyết.
Dưới
góc độ lý luận, vi bằng có giá trị chứng cứ trong xét xử và là căn cứ để thực
hiện các giao dịch hợp pháp khác nên trường hợp có tranh chấp giá trị pháp lý của
vi bằng mà vi bằng đã được đăng ký tại Sở Tư pháp thì phải có cơ chế để vô hiệu
hóa giá trị vi bằng, tránh ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khác.
Tác
giả không đồng tình với quan điểm thứ nhất khi cho rằng, Tòa án tuyên vi bằng
vô hiệu để vô hiệu hóa vi bằng. Bởi lẽ, qua nghiên cứu thì
thuật ngữ “vô hiệu” thường được áp dụng đối với các hợp đồng, giao dịch có hình thức, nội
dung vi phạm quy định của pháp luật. Vi bằng là nội dung làm
chứng độc lập của thừa phát lại mà không phải là hợp đồng, giao
dịch. Vậy nên, Tòa án tuyên vi bằng vô hiệu như một phương thức vô hiệu hóa giá trị của vi
bằng là chưa thực sự hợp lý.
Tác
giả không đồng tình với quan điểm thứ ba khi cho rằng, nếu Tòa án hoặc các bên
không sử dụng vi bằng thì vi bằng không có giá trị sử dụng nên không cần thiết
phải hủy vi bằng. Đây là góc nhìn chưa toàn diện, bởi vì, việc sử dụng vi bằng
hiện nay rất đa dạng. Vi bằng có thể không được sử dụng
trong vụ việc này nhưng có thể được sử dụng ở một vụ việc khác mà không
ai kiểm soát được nếu chúng ta không có một văn bản, quyết định vô hiệu hóa vi
bằng của
cơ quan có thẩm quyền gửi các bên
có liên quan.
Tác
giả đồng tình với quan điểm thứ hai là nên trao quyền cho Tòa án hủy bỏ vi bằng
khi phát hiện vi bằng có vi phạm. Đối với các văn bản pháp lý không mang tính hợp đồng, ví dụ: Quyết định tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự, nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị
quyết của Hội đồng thành viên, bản án của Tòa án, quyết
định hành chính,... thì để vô hiệu hóa giá trị của chúng
khi có vi phạm, pháp luật quy định phương thức hủy bỏ. Vi bằng
là văn bản
do thừa phát lại lập, không mang tính hợp đồng nên khi có
vi phạm, Tòa án tuyên hủy bỏ là hợp lý theo thông lệ chung. Trên
thực tế, đã có Tòa án tuyên hủy bỏ vi bằng[4].
Tuy
nhiên, cần phân biệt là đối với các vi bằng mà thừa phát lại chỉ vi phạm về thủ tục lập vi bằng thì việc hủy bỏ vi bằng không có nghĩa là hủy bỏ các sự kiện, hành vi nêu
trong vi bằng mà chỉ hủy bỏ hình thức chứa đựng thông tin về sự kiện,
hành vi. Sau khi vi bằng bị hủy bỏ, lời làm chứng của
thừa phát lại trở thành lời làm chứng của người bình thường cùng các tài liệu
đính kèm vi bằng vẫn có giá trị là nguồn chứng cứ theo quy định khoản 1, khoản
4 Điều 94 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Điều 46 Nghị định số 61
chỉ quy định chung chung là “đối với việc
lập vi bằng, nếu có tranh chấp thì các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết”. Điều 73 của Dự thảo về thừa phát lại đã quy định chi tiết hơn là
tranh chấp liên quan đến hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cơ
quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định; còn tranh chấp về vi bằng thì các
bên yêu cầu Tòa án giải quyết. Như vậy, Dự thảo Nghị định về thừa phát lại chưa
đưa ra được hướng giải quyết đối với tranh chấp giá trị pháp lý của vi bằng.
Trên cơ sở bất cập nêu
trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 73 của Dự thảo Nghị định
về thừa phát lại như sau
“2. Trường hợp vi bằng đã được đăng ký tại Sở Tư pháp nhưng
các bên phát hiện thừa phát lại có vi phạm trong quá trình lập vi bằng thì có
quyền yêu cầu Tòa án xem xét hủy bỏ vi bằng”.
Ngoài ra, Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 cần
bổ sung quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết “Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố
hủy bỏ vi bằng”.
[1] Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh. “Vi bằng của thừa phát lại phải được
đăng ký”. Internet: http://plo.vn/ban-doc/vi-bang-cua-thua-phat-lai-phai-duoc-dang-ky-177238.html,
18/5/2018.
[2] Bùi Trọng Hào. “Lập vi bằng để lại tài sản cho con”. Internet: http://kinhtedothi.vn/lap-vi-bang-de-lai-tai-san-cho-con-274289.html,
18/5/2018.
[3] Báo cáo ngày 06/10/2017 của Bộ Tư pháp về thực trạng lập, đăng ký
vi bằng và xử lý vi phạm hành chính trong tổ chức và hoạt động thừa phát lại.
[4] Bản án sơ thẩm số
92/2017/DS-ST ngày 10/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai và Bản án phúc thẩm số 67/2018/DS-PT NGÀY 13/04/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
Nguồn: Trích Luận văn "Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Hoàng Đức Hoài, bảo vệ tại Đại học kinh tế - Luật năm 2019.