Thứ nhất, cần phải nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước và người
dân về Thừa phát lại. Khi nhận thức được tăng lên thì hoạt động của Thừa phát lại
sẽ thuận lợi hơn do có được sự hợp tác của cơ quan nhà nước và người dân. Việc
nâng cao nhận thức cần được thực hiện đồng bộ thông qua các kênh khác nhau như:
Tổ chức hội nghị tuyên truyền, báo cáo chuyên đề phù hợp với các đối tượng
khác nhau (lãnh đạo, cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan đơn vị trên địa
bàn, đội ngũ Báo cáo viên, Tuyên truyền viên pháp luật, Hòa giải viên, Cộng tác
viên trợ giúp pháp lý, Ban điều hành khu phố, Tổ trưởng Tổ dân phố, Công an,
cán bộ công chức ngành Tòa án và Thi hành án Dân sự, các ngân hàng, luật sư, luật
gia, cán bộ, giảng viên); với các hình thức đa dạng (biên soạn và phát hành tờ
rơi, tờ gấp, in ấn tài liệu phổ biến); lồng ghép với việc phổ biến pháp luật
trong Kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm. Tận dụng
và phát huy tối đa lợi thế của các phương tiện thông tin, truyền thông (như báo
chí, Đài truyền hình, Đài Tiếng nói nhân dân), nhất là lợi thế của báo mạng,
báo hình, của internet để chuyển tải thông tin tuyên truyền về Thừa phát lại với
các hình thức đa dạng như đối thoại trực
tuyến với nhân dân về chế định Thừa phát lại; Hội nghị giao ban báo chí của
thành phố; các phóng sự về Thừa phát lại trên Đài Truyền hình Thành phố, Chuyên
trang giới thiệu về chế định Thừa phát lại và liên kết trên các Trang/Cổng
Thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức khác. Bên cạnh đó, còn có thể tạo điều
kiện cho các văn phòng Thừa phát lại chủ động thông tin, quảng bá về Thừa phát
lại. Đặc biệt là thông qua những kết quả, lợi ích do hoạt động thực tiễn của thừa
phát lại mang lại cho xã hội và người dân[1].
Thư ký Thừa phát lại đang tống đạt văn bản
Thứ hai, đề giải quyết vấn đề chi phí cho hoạt động tố tụng cần phải bỏ
quy định về chi phí như hiện nay và quy định lại cho thật sự hợp lý căn cứ vào
quảng đường (số km) mà Thừa phát lại phải di chuyển từ văn phòng đến địa điểm tống
đạt như trong cùng 1 tỉnh phạm vi 10km tính 65.000đồng/việc, trong phạm vi từ
hơn 10 đến dưới 20km tính 130.000đồng/việc, hơn 20km tính 180.000đồng/việc. Bên
cạnh đó, cần phải có sự phối hợp giữa các Văn phòng thừa phát lại để thực hiện
công việc được thuận lợi. Ví dụ có văn bản
tố tụng của Tòa án Quận 1 cần được tống đạt đến huyện Hóc Môn thì Văn phòng thừa
phát lại Quận 1 có thể gửi cho Văn phòng thừa phát lại Hóc Môn tống đạt và có
thể chia chi phí theo tỷ lệ ví dụ 5/5. Nếu có sự phối hợp như ví dụ thì công việc
thực hiện dễ dàng hơn do trên địa bàn của mình thì Văn phòng thừa phát lại rất
quen thuộc và có thể thực hiện nhanh chóng. Khi mà chi phí hợp lý và công bằng
thì việc thu hút nhân lực đối với các Văn phòng thừa phát lại xa trung tâm sẽ dễ
dàng hơn. Khi nhân lực đầy đủ thì áp lực công việc sẽ giảm xuống và có thể từng
bước bổi dưỡng, nâng cao năng lực cho
thư ký Văn phòng. Do đó, khi mà bài toán về nhân lực được giải quyết thì chất
lượng tống đạt văn bản tố tụng của Thừa phát lại sẽ được đảm bảo. Tiếp theo, cần
phải bỏ quy định mỗi Tòa án chỉ được ký kết hợp đồng với 01 văn phòng Thừa phát
lại và tạo điều kiện để trong cùng 1 quận, huyện cho phép thành lập nhiều Văn
phòng thừa phát lại thay vì chỉ 01 như hiện nay. Do như vậy sẽ tạo sự độc quyền,
làm mất tính cạnh tranh và phát sinh tình trạng biên bản tống đạt của Văn phòng
thừa phát lại không đảm bảo chất lượng mà Tòa án.
Thứ ba, các nước trên thế giới đã áp dụng chế định Thừa phát lại từ lâu
và đóng góp một phần rất quan trọng trong hoạt động tố tụng. Do đó, cần phải tiến tới xây dựng Luật Thừa
phát lại để quy định cụ thể về các thành lập, tiêu chuẩn, tổ chức, phạm vi quyền
hạn và quan trọng là trách nhiệm pháp lý cụ thể khi Thừa phát lại thực hiện
công việc không đúng hoặc không đầy đủ công việc của mình, thay vì chỉ giải quyết
bằng con đường khiếu nại như hiện nay.
[1] Báo cáo số 1205/BC- UBND Tổng kết việc thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại
tại Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7/2015.